1 Tìm hiểu về trận hải chiến Hoàng Sa 1974 Tue Sep 15, 2009 10:50 pm
Everlasting
I ♥ U
Ngược dòng lịch sử.
Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và
Hải quân Trung Quốc từ 17 đến 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng
Sa. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam Cộng hòa đã thu hồi chủ
quyền toàn bộ quần đảo này từ chính phủ bảo hộ Pháp nhưng một phần quần
đảo đã bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho quân ra chiếm giữ khi người
Pháp rút đi, Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và thực hiện chủ quyền
được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Sau trận
chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo cho đến nay.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo
vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết
(Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite
group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây(
báo Tuổi Trẻ có bài viết về đài quan sát khí tượng này, những nười làm
việc tại đây hiện vẫn còn sống tại VN), trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng
và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong
đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây
Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam),
đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam
Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung
Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của
chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận.
Bức thư của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, tuyên bố "tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc"Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban
hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của
Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam
Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến
thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một
sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa
Reversion Treaty) trao trả quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu) (tức Sento Shosho
hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự
phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt,
cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng
Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo
tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân Việt
Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và
là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa..
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục
chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. [5] Những năm cuối của cuộc Chiến
tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến
của Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một
trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Đệ thất Hạm đội sau khi rút
quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ
đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1974 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một
phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng
nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Khi một
phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa
trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự
hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Tương quan lực lượng
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4)Phía Việt Nam có Tuần dương hạm Trần
Bình Trọng (HQ-5), Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Khu trục hạm
Trần Khánh Dư (HQ-4), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), một đại đội hải
kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải
quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Trung Quốc có Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo
lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391, Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm
đĩnh số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân (không rõ loại),
Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, và
hai đội trinh sát.
Diễn tiến
Chiến sĩ Biệt hải Việt Nam Cộng hòa ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần
dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402
và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân
Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy
Mộng, Vĩnh Lạc.
Sau khi cấp báo về Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng,
HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải
Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang
hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17 tháng 1 năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng
Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ
cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa rút trở lên tàu.
Cùng trong ngày Liệp tiềm đĩnh số 274 và Liệp tiềm đĩnh số 271 của
Trung Quốc xuất hiện.
Soái hạm Trần Bình Trọng (HQ-5)Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Đề đốc Lâm
Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng hòa bay ra Bộ tư lệnh
Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam
Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1
được tăng cường thêm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm
cho cuộc hành quân, và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu
ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ
còn một máy hoạt động.
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, các nhóm biệt hải và hải kích của Việt Nam
Cộng hòa từ HQ-5 đổ quân lên mặt Nam đảo Quang Hòa, Hải quân Trung Quốc
đổ quân xuống mặt Bắc đảo. Hai bên giao tranh và phía Việt Nam Cộng hòa
có 3 chết và 2 bị thương. Do quân Trung Quốc quá đông, quân Việt Nam
Cộng hòa rút trở lên HQ-5.
Ngay sau đó chiến hạm hai bên triển khai đội hình gần đảo Quang Hòa và
chiến hạm Việt Nam Cộng hòa khai hỏa trước. Hai bên chạm súng từ 30 đến
45 phút, cùng thời điểm đó Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận
được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn,
cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided
missile frigate) và chiến đấu cơ MIG từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng
Sa. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Đệ thất Hạm
đội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa
được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Kết quả
Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10)HìnhLAN-389C.jpg
Tảo lôi hạm số 389 Hải quân Trung Quốc
Liệp tiềm đĩnh số 271 Hải quân Trung Quốc, chụp từ chiến hạm VNCH trước
khi nổ súngTheo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa thì 274 trúng đạn, tay
lái bất khiển dụng phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát,
271 hoặc 389 bị chìm tại trận, và 389 và 391 bị hư hại nặng. HQ-10
trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng
15 độ, HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn
Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị
thương. Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Hòa
Lan "Kopionella" vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang
trôi dạt trên biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt
Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng hòa gần Mũi Yến (Qui
Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ
bộ lên Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo một bài "Không thể chấp nhận được!" của Bùi Thanh đăng trên báo
Tuổi Trẻ Online ngày Thứ Năm, 06/12/2007, 08:14 (GMT+7)"Trong trận hải
chiến lịch sử và không cân sức này, 58 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã ngã
xuống nhưng không giữ được mảnh đất thiêng liêng của ông cha."
Theo tài liệu của Trung Quốc thì 274, 271, 389, 391 đều trúng đạn, 281,
282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung
Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ[8]. Trung Quốc có
trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.
Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này. Sau trận
chiến, Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các
chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình[cần dẫn chứng] và đã được Chính
phủ Pháp ủng hộ vì trước đây theo Hòa ước Pháp Thanh thì người Pháp đã
thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cho đập
phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt
đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.
Phản ứng trước vụ việc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ tuyên bố rằng
"các nước liên quan nên giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán trên tinh
thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ láng giềng". Họ đã không
thể làm gì hơn, do tại thời điểm giữa cuộc chiến tranh đó, họ vẫn cần
đến viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc. Ngay sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này đã gây ra sự bất bình lớn của
Trung Quốc và bắt đầu một thời kì quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt
Nam - Trung Quốc.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên biển Đông.
Thời gian: 18 tháng 1 năm 1974
Địa điểm: Quần đảo Hoàng Sa
Kết quả: Hải quân Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa
Mâu thuẫn tiếp diễn giữa Trung Quốc và Việt Nam về vấn đề biển Đông
Tham chiến
Hải quân Quân đội giải phóng nhân dân Trung hoa Hải quân Việt Nam Cộng hòa
Chỉ huy
Không rõ Đô đốc Lâm Ngươn Tánh
Lực lượng
2 tảo lôi hạm
4 liệp tiềm đỉnh loại Krondstadt
2 chiến hạm chở quân cùng 4 tiểu đoàn thủy quân lục chiến 2 tuần dương hạm
1 hộ tống hạm
1 khu trục hạm
1 đại đội hải kích
1 nhóm biệt kích quân
1 trung đội quân địa phương
Thương vong
4 tàu bị hư hại nặng
18 thủy thủ
Thương vong lính thủy không rõ 1 hộ tống hạm chìm
hơn 40 thủy thủ
16 người bị thương
48 tù binh
Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và
Hải quân Trung Quốc từ 17 đến 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng
Sa. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam Cộng hòa đã thu hồi chủ
quyền toàn bộ quần đảo này từ chính phủ bảo hộ Pháp nhưng một phần quần
đảo đã bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho quân ra chiếm giữ khi người
Pháp rút đi, Việt Nam Cộng hòa chỉ chiếm giữ và thực hiện chủ quyền
được một phần quần đảo cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Sau trận
chiến, Trung Quốc đã chiếm đóng toàn bộ quần đảo cho đến nay.
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo
vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết
(Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite
group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây(
báo Tuổi Trẻ có bài viết về đài quan sát khí tượng này, những nười làm
việc tại đây hiện vẫn còn sống tại VN), trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng
và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong
đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây
Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam),
đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam
Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung
Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của
chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận.
Bức thư của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, tuyên bố "tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc"Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban
hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của
Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam
Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến
thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một
sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa
Reversion Treaty) trao trả quần đảo Điếu Ngư (Diaoyu) (tức Sento Shosho
hay Senkaku Retto của Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự
phản đối của Đài Loan và Trung Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt,
cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp báo tuyên bố tại Guam rằng
Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo
tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải quân Việt
Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và
là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa..
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục
chạm súng trên hải phận Hoàng Sa. [5] Những năm cuối của cuộc Chiến
tranh Việt Nam, vì nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến
của Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một
trung đội địa phương quân trấn giữ nhóm Nguyệt Thiềm.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Đệ thất Hạm đội sau khi rút
quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ
đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1974 Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một
phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng
nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Khi một
phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa
trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự
hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Tương quan lực lượng
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4)Phía Việt Nam có Tuần dương hạm Trần
Bình Trọng (HQ-5), Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), Khu trục hạm
Trần Khánh Dư (HQ-4), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), một đại đội hải
kích thuộc Hải quân Việt Nam Cộng hòa, một số biệt hải (biệt kích hải
quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Trung Quốc có Liệp tiềm đĩnh số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo
lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 391, Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm
đĩnh số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân (không rõ loại),
Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, và
hai đội trinh sát.
Diễn tiến
Chiến sĩ Biệt hải Việt Nam Cộng hòa ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần
dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402
và số 407 của Hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân
Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy
Mộng, Vĩnh Lạc.
Sau khi cấp báo về Bộ tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng,
HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải
Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang
hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17 tháng 1 năm 1974, Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng
Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ
cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa rút trở lên tàu.
Cùng trong ngày Liệp tiềm đĩnh số 274 và Liệp tiềm đĩnh số 271 của
Trung Quốc xuất hiện.
Soái hạm Trần Bình Trọng (HQ-5)Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Đề đốc Lâm
Ngươn Tánh, Tư lệnh phó Hải quân Việt Nam Cộng hòa bay ra Bộ tư lệnh
Hải quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam
Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1
được tăng cường thêm Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm
cho cuộc hành quân, và Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu
ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ
còn một máy hoạt động.
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, các nhóm biệt hải và hải kích của Việt Nam
Cộng hòa từ HQ-5 đổ quân lên mặt Nam đảo Quang Hòa, Hải quân Trung Quốc
đổ quân xuống mặt Bắc đảo. Hai bên giao tranh và phía Việt Nam Cộng hòa
có 3 chết và 2 bị thương. Do quân Trung Quốc quá đông, quân Việt Nam
Cộng hòa rút trở lên HQ-5.
Ngay sau đó chiến hạm hai bên triển khai đội hình gần đảo Quang Hòa và
chiến hạm Việt Nam Cộng hòa khai hỏa trước. Hai bên chạm súng từ 30 đến
45 phút, cùng thời điểm đó Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận
được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn,
cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided
missile frigate) và chiến đấu cơ MIG từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng
Sa. Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Đệ thất Hạm
đội trợ giúp, nhưng không thành công. Các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa
được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Kết quả
Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10)HìnhLAN-389C.jpg
Tảo lôi hạm số 389 Hải quân Trung Quốc
Liệp tiềm đĩnh số 271 Hải quân Trung Quốc, chụp từ chiến hạm VNCH trước
khi nổ súngTheo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa thì 274 trúng đạn, tay
lái bất khiển dụng phải ủi vào bãi san hô để thủy thủ đoàn đào thoát,
271 hoặc 389 bị chìm tại trận, và 389 và 391 bị hư hại nặng. HQ-10
trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng
15 độ, HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn
Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị
thương. Hai ngày sau trận hải chiến, ngày 20 tháng 1, tàu chở dầu Hòa
Lan "Kopionella" vớt được 23 người thuộc thủy thủ đoàn của HQ-10 đang
trôi dạt trên biển. Đến mười ngày sau, ngày 29 tháng 1, ngư dân Việt
Nam vớt được một toán quân nhân Việt Nam Cộng hòa gần Mũi Yến (Qui
Nhơn), gồm 1 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 12 quân nhân thuộc lực lượng đổ
bộ lên Quang Hòa, đã dùng bè vượt thoát đảo sau trận hải chiến.
Theo một bài "Không thể chấp nhận được!" của Bùi Thanh đăng trên báo
Tuổi Trẻ Online ngày Thứ Năm, 06/12/2007, 08:14 (GMT+7)"Trong trận hải
chiến lịch sử và không cân sức này, 58 binh sĩ quân đội Sài Gòn đã ngã
xuống nhưng không giữ được mảnh đất thiêng liêng của ông cha."
Theo tài liệu của Trung Quốc thì 274, 271, 389, 391 đều trúng đạn, 281,
282 và 402, 407 bị hư hại trung bình, HQ-10 bị chìm tại trận. Trung
Quốc bắt giữ 48 tù binh, trong đó có một người Mỹ[8]. Trung Quốc có
trao trả tù binh sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ.
Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ thời điểm này. Sau trận
chiến, Việt Nam Cộng hòa đã ra nhiều tuyên bố cũng như trưng ra các
chứng cớ lịch sử về chủ quyền của mình[cần dẫn chứng] và đã được Chính
phủ Pháp ủng hộ vì trước đây theo Hòa ước Pháp Thanh thì người Pháp đã
thực hiện chủ quyền ở quần đảo này. Tuy nhiên, Trung Quốc đã cho đập
phá các bia chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt
đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt.
Phản ứng trước vụ việc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ tuyên bố rằng
"các nước liên quan nên giải quyết mâu thuẫn bằng đàm phán trên tinh
thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, và quan hệ láng giềng". Họ đã không
thể làm gì hơn, do tại thời điểm giữa cuộc chiến tranh đó, họ vẫn cần
đến viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc. Ngay sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này đã gây ra sự bất bình lớn của
Trung Quốc và bắt đầu một thời kì quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt
Nam - Trung Quốc.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay vẫn khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa và vùng lãnh hải liên quan trên biển Đông.
Thời gian: 18 tháng 1 năm 1974
Địa điểm: Quần đảo Hoàng Sa
Kết quả: Hải quân Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa
Mâu thuẫn tiếp diễn giữa Trung Quốc và Việt Nam về vấn đề biển Đông
Tham chiến
Hải quân Quân đội giải phóng nhân dân Trung hoa Hải quân Việt Nam Cộng hòa
Chỉ huy
Không rõ Đô đốc Lâm Ngươn Tánh
Lực lượng
2 tảo lôi hạm
4 liệp tiềm đỉnh loại Krondstadt
2 chiến hạm chở quân cùng 4 tiểu đoàn thủy quân lục chiến 2 tuần dương hạm
1 hộ tống hạm
1 khu trục hạm
1 đại đội hải kích
1 nhóm biệt kích quân
1 trung đội quân địa phương
Thương vong
4 tàu bị hư hại nặng
18 thủy thủ
Thương vong lính thủy không rõ 1 hộ tống hạm chìm
hơn 40 thủy thủ
16 người bị thương
48 tù binh